NGHÈO CÓ PHẢI LÀ DO CHÚA PHẠT?
Trần Mỹ Duyệt
Mình nghèo có phải là Chúa phạt con không vậy chú? Tại sao Chúa để nhà con sảy ra nhiều chuyện đến như vậy?
Ng Hà
Góp ý:
Nghèo, khó khăn, và thử thách là những vấn nạn mà mọi người, mọi gia đình thường gặp phải trong cuộc đời. Quan niệm nhà Phật gọi đời là “bể khổ!” Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta đọc thấy những lời này: “Chúng con, con cháu Evà ở chốn khách đầy kêu đến cùng Bà, chúng con ở nơi khóc lóc than thở kêu khẩn Bà thương”. Tóm lại đã mang kiếp nhân sinh, không ai tránh khỏi cảnh nghèo và cũng ít ai tránh gặp phải những khó khăn, thử thách.
Câu hỏi của Hà xảy ra đúng lúc hàng trăm, ngàn người và có lẽ nhiều hơn nữa đã bị nước lũ cuốn trôi đem theo cả gia tài, nhà cửa, mùa màng; cùng với bao nhiêu làng mạc, thành thị bị ngập lụt tại Bắc Kinh và các vùng phụ cận của Trung Quốc do trận bão Doksuri gây ra.
Có ít nhất 93 người chết, hàng trăm người còn đang mất tích, cộng với bao nhiêu nhà cửa, tài sản của người dân tỉnh Lahaina, đảo Maui, bang Hawaii, Hoa Kỳ đã bị ngọn lửa nuốt sạch trong trận hỏa hoạn thế kỷ tại đây.
Rồi còn bao nhiêu người chiến sỹ, thường dân, trẻ em đã phải chết dưới làn mưa pháo và không kích. Nhiều làng mạc, trường học, bệnh viện, thánh đường, nhà cửa, và khu dân cư bị phá hủy do cuộc chiến hiện còn đang kéo dài ở Ukraine.
Ngay tại Việt Nam, nhiều người vẫn không đủ cơm ăn, áo mặc. Nhiều gia đình, con cái phải sống trong nheo nhóc, khổ sở. Đồng bào Công Giáo trên Cao Nguyên vẫn đang bị bọn chính quyền địa phương bắt bớ, gây khó dễ…
Tất cả những sự kiện trên nếu đem so sánh với cái nghèo, và những chuyện gì đó đang xảy đến cho gia đình Hà liệu có giống nhau hay khác nhau, và ai khổ, ai nghèo hơn ai lúc này?
Trở lại quan niệm cho rằng nghèo là bị Chúa phạt là hoàn toàn không đúng. Vẫn biết nghèo có thể khiến ta khổ, đói khát, bị người khác khinh miệt, nhưng nghèo không phải là hình phạt, chưa kể đến nếu cái nghèo ấy lại do tự mình gây ra, thí dụ, rượu chè, hút sách, cờ bạc, và gái gú, bồ bịch…
Còn gia đình có nhiều chuyện xảy ra - dĩ nhiên là không vui, không vừa ý - cũng không phải là do Chúa làm. Rất nhiều gia đình đổ vỡ, nghèo túng là do mình. Lười không chịu làm ăn. Muốn ăn ngon, mặc đẹp mà không muốn làm. Thánh Phaolô đã viết cho những người này: “Những ai không làm thì đừng có ăn” (2 Thessalonians 3:10). Về phần mỗi người, đứng trước cái mà ta gọi là nghèo, cần bình tâm để tự hỏi lòng mình: “Thế nào là giầu, thế nào là nghèo?” Và đương nhiên nghèo không phải là tội. Con Thiên Chúa làm người là hình ảnh của những người nghèo: sinh ra trong chuồng bò, mưu sinh bằng nghề thợ mộc, đi truyền giáo không có hòn đá gối đầu, và khi chết được chôn nhờ trong ngôi mộ của người khác. Nghèo đến thế mà Ngài lại nói: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:3)”. Nghe ra thì cũng hơi “chói tai”, nhưng lại là một chân lý, bởi vì nó sẽ dẫn đến lời chúc phúc.
Còn những chuyện này, chuyện khác xảy ra trong gia đình. Chuyện gì? Người thân hay chính mình bị bệnh nan y, gặp tai nạn, hoặc tù tội? Nếu là những chuyện xảy ra ngoài ý muốn, vượt quá tầm tay của mình, thì cách tốt nhất là chạy đến với Chúa và Đức Mẹ. Trong những trường hợp ấy, chúng ta chỉ biết tin cậy và phó thác. Chúa có quan phòng và cách giải quyết của Ngài. Ngài không để chúng ta phải thất vọng.
Còn chuyện gia đình bất hòa, con cái hư hỏng thì sao? Tâm lý khác nhau, hiểu biết khác nhau, ảnh hưởng tôn giáo, giáo dục khác nhau nên cách thức suy nghĩ khác nhau, và lối hành xử cũng khác nhau… Có khi vì tự ái, vì cái tôi, vì ươn lười, vì gia trưởng, và tệ nạn xã hội khiến cho cuộc sống, không khí gia đình trở nên bất an, cãi vã, đánh đập, và chia ly. Nếu những thứ đó là lý do gây ra những chuyện lục đục, không vui vẻ, mất hạnh phúc trong gia đình mà tại mình, mình phải lo sửa sai. Nên nhớ thêm là dù mình có tốt đến đâu đi nữa thì những khốn khó, thử thách vẫn theo mình, vì đó là con đường người công chính phải đi qua: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức!”
Nói chung, nghèo khó, đau khổ và thử thách người Công Giáo gọi là “thánh giá”, mà thánh giá ấy Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi nó bằng một cái tên rất huyền nhiệm: “mầu nhiệm đau khổ!” Đến vị thánh còn suy không ra, hiểu không thấu mà phải gọi chúng là mầu nhiệm, liệu chúng ta hiểu được bao nhiêu giá trị, hay ý nghĩa đích thực của những cái nghèo, cái khó và cái khổ?
Về phần tâm linh, chỉ có một điều là “vác lấy thánh giá”, chấp nhận thử thách bằng lời cầu xin. Xin Chúa giúp ta hiểu nó để vui lòng đón nhận. Vui lòng đón nhận, chứ không chống đối, khó chịu hoặc bỏ trốn, vì “Khi Chúa thử thách tôi, ai sẽ an ủi được tôi?”
Còn lại mọi thứ cứ từ từ tìm cách để giải quyết, bởi tất cả mọi chuyện đều có nguyên nhân và cách để giải quyết. Trên hành trình cuộc sống, ai cũng phải đi qua những cơn giông bão, những buổi trưa hè nóng nực, những gập ghềnh, trơn trượt, và dĩ nhiên cũng có lúc đi qua những cánh đồng với nhiều hoa thơm, cỏ lạ.
“Nếu đời cho ta một trái chanh, hãy dùng nó để vắt lấy một ly chanh đường”.
Những góp ý trên mong trả lời phần nào các băn khoăn và suy tư của Hà. Xin Chúa là Thiên Chúa của sự bình an đến ngự trị trong tâm hồn và hướng dẫn Hà để biết nhận ra đâu là những lý do và ý nghĩa của cái nghèo và những thử thách mà mình gặp để cầu xin ơn trợ giúp, và ơn khôn khoan trong việc giải quyết từng vấn đề.
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?